Sự Thử Thách
Minh Hạnh phóng tác
"Thứ nhất thì tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, Thứ ba tu chùa."
Lời truyền rằng; tu viện Linh Sơn là ngôi chùa nằm trên một ngọn núi sâu trong rừng rậm, từ thành phố muốn tới hành hương cũng phải mất một ngày trời vì đường đá gồ ghề. Sư trụ trì tuổi chừng 70 đã sống trong ngôi chùa từ rất lâu và rất lâu, khi sư là đứa bé vừa chập chững biết đi, biết nói bập bẹ đã được cha mẹ đem đến gửi nhà chùa nuôi. Ngôi chùa ngoài vị Sư trụ trì còn có khoản 10 vị sư trẻ khác cũng đến chùa sống dưới sự chăm sóc của vị trụ tri từ khi còn là những đứa trẻ được cha mẹ đem đến nhờ nhà chùa nuôi dạy, tất cả ngày lẫn đêm quây quần tu tập bên nhau.
Mùa hè ở đây, khi những tia nắng ban mai ló rạng, mặt trời bao trùm ngọn núi với những nương rau, nương khoai, đất trời như hồi sinh, khí trời lành lạnh xen tiếng chim hót líu lo tạo nên âm thanh tươi mát.
Trong khi, buổi tối thì ngược lại, rừng núi chung quanh chìm trong im lặng và u ám. Thỉnh thoảng, một đám mây bão nổi lên và có tiếng sấm rền vang giận dữ. Bầu trời bên ngoài với những đám mây tối đen đem cơn bão vần vũ kêu rít từng hồi. Những tàng cây quằng quại trong giông bão chúng đập vào nhau, những tàng lá bay tơi tả theo cơn gió cấu tạo thành một bức họa sống động, một thứ gì đó rất hoang dã và phẫn nộ. Hoặc những đêm với nhiều ngôi sao lấp lánh trên bầu trời. Và xa, rất là xa, vang lên những tiếng gầm gừ của những con hổ đói đang đi rình mồi quanh ngọn núi... đó là tất cả ở đây , một quần thể gồm một căn phòng tập thể cho mọi người sinh hoạt một bên ngọn núi và bên kia ngọn núi là ngôi chùa với Chánh Điện nằm sừng sững tọa lạc thật xa thật xa trên con đường ra thành phố. Mỗi ngày và mỗi đêm, năm này qua năm khác tiếp diễn như vậy.
Hàng đêm tu sĩ cầu nguyện xong và vị Sư trụ trì thuyết giảng giáo pháp. Vị Sư trụ, Khi Sư nói về bất cứ điều gì, ngay cả những điều bình thường nhất - ví dụ như rừng núi, thú dữ - toàn thể họ lắng nghe mà không có một sự xúc động hay ngạc nhiên vì dường như đó là những hợp âm giống nhau. Nếu Sư xúc động đến tức giận hoặc kiềm chế bản thân trước niềm vui mãnh liệt, hoặc bắt đầu nói về điều gì đó khủng khiếp hoặc vĩ đại, thì khuôn mặt Sư đỏ bừng, và giọng nói như sấm, và các nhà sư lắng nghe, họ cảm thấy rằng linh hồn của họ bị trói buộc bởi sự thuyết giảng của Sư Trụ Trì. Vào những khoảnh khắc như vậy, quyền lực của Sư Trụ Trì đối với họ là vô biên, và nếu Sư đề nghị các đệ tử của mình hãy hi sinh vì giáo pháp thì, tất cả, tất cả mọi người trong số họ, sẽ nhanh chóng thực hiện mong muốn của Sư.
Những bài kinh tụng, giọng ngân kinh kệ của Sư Trụ Trì tôn vinh Đức Phật, Chư Thiên, là nguồn vui liên tục cho các tu sĩ. Đôi khi, qua sự đơn điệu của cuộc sống, họ cảm thấy mệt mỏi vì cuốc đất đào mương cho những nương khoai, nương rau, hoa trái, mùa xuân, mùa thu, đôi tai của họ mệt mỏi vì âm thanh của rừng rú và tiếng hót của loài chim dường như tẻ nhạt đối với họ, nhưng tài năng của Sư trụ trì là cần thiết đối với họ trong cuộc sống hàng ngày.
Mấy chục năm trôi qua, ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác, tất cả đều giống nhau, ngày cũng như đêm. Ngoại trừ chim chóc và thú dữ cọp beo, không có một linh hồn nào xuất hiện gần chùa. Nơi sinh sống của con người gần nhất rất xa và rất xa, để đến được chùa, hoặc từ chùa đến nơi có con người sống, là một cuộc hành trình hơn bảy mươi cây số băng qua rừng rú. Chỉ có những người chán sự sống, những người muốn từ bỏ cuộc sống, và những người đến ngôi chùa như một nấm mồ, mới mạo hiểm băng qua rừng rú.
Nhưng mà rồi, một đêm nọ, cổng chùa tiếng chuông được gióng lên do một ai đó, đã đánh thức mọi người dạy. Đó là một người đàn ông đến từ thành phố. Người đàn ông đó đã xin một bữa ăn vì dường như ông ta đói lã rồi.
Sư trụ trì kêu một người xuống nhà bếp thổi cho anh ta một ít cơm, luộc một ít rau và dọn lên cùng với chén tương để mời người khách ăn.
Khi anh ta ăn xong, Sư trụ trì hỏi làm thế nào anh ta từ thị trấn vào rừng rậm, anh ta trả lời do đi săn cùng chúng bạn; vì uống rượu quá nhiều nên lạc đường. Sư Trụ Trì đề nghị anh ta nên xuất gia vào chùa tu để giải thoát các nghiệp bất thiện mà anh đã làm trong cuộc sống của anh như đi săn là một hình thức sát sinh, anh ta đã trả lời với một nụ cười: "Tôi không phải là một người bạn đồng hành phù hợp với các người!"
Anh ta nhìn các nhà sư đang đứng quanh mình, lắc đầu và trách móc:
"Các người không làm gì cả, các người đi tu. Các người ăn uống chẳng ích lợi gì. Đó có phải là cách giải thoát con người không? Chỉ nghĩ, trong khi các người ngồi đây thanh thản, ăn uống và ước mơ phúc lộc, xóm giềng của các người đang diệt vong và đang đi đến địa ngục. Các người nên xem những gì đang diễn ra trong thị trấn! Một số đang chết vì đói, những người khác, không biết phải làm gì với số vàng của mình, chìm trong tội lỗi và chết như ruồi mắc mật. Không có đức tin , không có lẽ thật về loài người. Nhiệm vụ của ai cứu họ? Công việc của ai là phải thuyết giảng cho họ? Việc này không phải dành cho tôi, một người say xỉn từ sáng đến tối như tôi. Một tâm hồn từ bi, một trái tim tràn đầy bi mẫn và niềm tin vững mạnh, để các người ngồi đây trong bốn bức tường mà không làm gì cả? "
Những lời nói say sưa của người đi săn đến từ thành phố là xấc xược và vô nghĩa, nhưng chúng có tác dụng kỳ lạ đối với Sư Trụ Trì. Sư Trụ Trì trầm ngâm nhìn đệ tử của mình, rồi nói:
"Này các con, anh ta nói sự thật. Thật vậy, chùa không phải là nơi giải sầu, Tam Bảo không là chốn xa lánh trần gian, chúng ta nói tu để giải thoát nhưng chúng ta lại quên những con người ngoài kia sống cuộc sống phù hoa, đàng điếm , một xã hội trụy lạc hầu như sắp diệt vong, phần lớn trong đó người ta đã nhầm lẫn ý nghĩa của đời người, mọi lý tưởng cao xa, chỉ là sự thỏa mãn về vật chất, sự đầy đủ của xác thịt; những hành động trái với luân thường đạo lý, con người trong cuộc sống hàng ngày mà kẻ tiểu nhân xen lẫn trong đời sống khó nhận biết. Họ dối gạt lừa lọc nhau, điều này khiến xã hội đi vào chỗ bại hoại gây ra nhiều tội ác. những người nghèo trong sự suy nhược và thiếu hiểu biết của họ đang rãy chết trong sự vô minh, trong khi chúng ta không hề biết đến, như thể điều đó không liên quan đến chúng ta. Tại sao chúng ta không nên đi và dạy họ về Ngũ giới là năm điều ngăn cấm mà Đức Phật đã ban ra, để ngăn ngừa những pháp bất thiện, những điều này dựa trên tâm từ bi, bình đẳng trên phương diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui cho xã hội ?"
Và đêm đó, những lời của người thị trấn đã khiến Sư Trụ Trì suy nghĩ miên man. Ngày hôm sau khi ban mai vừa chớm dạy, Sư Trụ Trì tiến người khách một đêm ra về lại thành phố, Sư Trụ Trì cũng nói lời tạm biệt các đệ tử để vào thành phố hóa độ cho người dân, những người vì vô minh đang lầm lạc sa ngã trong tội lỗi nơi thị trấn. Và các tu sĩ đã bị bỏ lại mà không có sự dìu dắt của Sư Trụ Trì, và không có các bài thuyết giảng cũng như lời tụng kinh hàng đêm. Họ trải qua những tháng ngày ảm đạm, họ chờ đợi vị Trụ Trì xuất hiện lại nơi cửa chùa, nhưng chờ mỏi mòn ngày này qua ngày khác, Sư cũng không quay lại. Cuối cùng, sau ba tháng trôi qua, tiếng gióng chuông quen thuộc của Sư Trụ Trì đã được nghe thấy. Các tu sĩ chạy như bay đến gặp Sư và đặt câu hỏi, nhưng thay vì vui mừng khi nhìn thấy các đệ tử, thì Sư Trụ Trì khóc thảm thiết và không thốt lên lời nào. Các nhà sư nhận thấy thầy mình trông già đi rất nhiều và gầy đi; khuôn mặt mệt mỏi và mang một biểu hiện của nỗi buồn sâu sắc, và khi Sư Trụ Trì khóc, dường như mang khí chất của một người đàn ông đã bị xúc phạm.
Các tu sĩ cũng rơi nước mắt, và hỏi tại sao Sư Phụ lại khóc như vậy, và sao trông Sư Phụ buồn thảm như vậy. Nhưng Sư Trụ Trì không trả lời mà lặng lẽ đi về am thất của mình, nhốt mình trong am thất suốt ngày không ra khỏi. Trong bảy ngày, Sư ngồi trong am thất, chỉ khóc và không tụng kinh kệ, đến giờ thọ trai đệ tử gõ cửa thỉnh đến trai đường nhưng Sư im lặng không đáp trả nên họ đành để bát của Sư trước cửa am thất, có hôm bát vẫn còn đầy. Các tu sĩ đến gõ cửa van nài Sư trụ trì ra ngoài và chia sẻ nỗi đau của mình với họ, nhưng Sư trụ trì chỉ đáp lại bằng một sự im lặng.
Cuối cùng thì Sư Trụ Trì cũng ra khỏi am thất. Tập hợp tất cả các tu sĩ tại ngôi Chánh Điện, với khuôn mặt đau khổ xen lẫn sự buồn phiền và phẫn nộ, Sư bắt đầu kể cho các đệ tử của mình những gì đã xảy ra với Sư trong ba tháng ở thị trấn.
Giọng Sư trầm buồn và dường như đôi mắt của Sư rạng lên khi nói đến cuộc hành trình của mình trên con đường mòn từ chùa đến thị trấn. Con đường gập ghềnh giữa những đá và rễ cây rất khó bước đi, tiếng chim hót, tiếng suối chảy róc rách, và những hy vọng ngọt ngào kích động tâm hồn Sư, thỉnh thoảng đâu đó tiếng hú của những con vượn khiến mấy con chim đang hót líu lo trên ngọn cây sợ hãi vỗ cánh bay vụi lên hư không. Mặt trời soi rọi xuyên qua những cây rừng rực rỡ những tia nắng ban mai. Sư băng qua rừng, lội qua suối, rồi Sư thấy trước mặt mình là một cánh đồng rộng được bao phủ bởi những ngọn lúa chín vàng ươm. Ở xa thật là xa nơi ở của con người không thể nhìn thấy ở phía cuối đường chân trời; và dường như con đường mà Sư đi sẽ dẫn đến khu vực bí ẩn, mà Sư chưa hề khám phá ở phía tây, nơi mặt trời đã lặn — nơi vẫn còn, rộng lớn và bí ẩn đối với Sư, nơi đó có ánh sáng tỏa ra muôn màu rực rỡ. Sư tự tin vào niềm tin mạnh mẽ của mình đối với Tam Bảo sẽ mang đến cho Sư một sự chiến thắng trong chuyến đi này.
Nhưng giọng nói của Sư bắt đầu run lên, mắt Sư bắn ra sự phẫn nộ khi nói về thị trấn và về những người đàn ông trong đó. Chưa bao giờ trong đời Sư nhìn thấy hoặc thậm chí không dám nhớ lại những gì Sư đã gặp khi đi vào thị trấn. Chỉ khi đó, lần đầu tiên trong đời, ở tuổi già, Sư mới thấy và hiểu được sức mạnh cám dỗ của ma quỷ như thế nào, và đàn ông yếu đuối và vô giá trị như thế nào. Do một tình cờ không may, ngôi nhà đầu tiên Sư bước vào lại là nơi ăn chơi của những người đàn ông. Đó không phải một nơi ăn chơi xoành xĩnh, mà là một tòa nhà bề thế, nhìn bề ngoài người ta nghĩ rằng chủ nhân nó là người lương thiện giàu có . Nhất là bầu không khí yên lặng càng làm tăng vẻ nghiêm trang”.
Khoảng năm mươi người đàn ông giàu có đang ăn và uống rượu cùng với các cô gái trẻ ăn mặc lả lơi ôm những người đàn ông giởn hớt, những ảnh mỹ nhân khỏa thân Tây phương treo la liệt trên tường. Say sưa bên những ly rượu, họ hát họ nhảy những bài hát quyến rũ và nói những lời nói thô tục , mà những người xuất gia không thể phát âm được; họ tự do, tự tin và hạnh phúc vô biên, họ không sợ ma quỷ, hay cái chết, họ nói và làm những gì họ thích, và đi theo dục vọng của họ dẫn dắt. Những thứ rượu đắt tiền trong veo như hổ phách, lấp lánh ánh vàng, hẳn là ngọt và thơm không thể cưỡng lại, những món ăn khai vị đáng kinh ngạc được mang đến từ nước ngoài, tất cả bọn họ đều say sưa hạnh phúc thưởng thức thú lạc của trần gian.
Giọng nói của vị Sư già càng lúc càng run lên vì tức giận và Sư khóc vì phẫn nộ, Sư tiếp tục mô tả những gì ông đã thấy. Ông nói, trên một chiếc bàn giữa những người vui chơi, có một người phụ nữ bán khỏa thân tội lỗi với những tiếng kêu rú khoái lạc. Thật khó để tưởng tượng hoặc tìm thấy trong tự nhiên bất cứ điều gì đáng yêu và hấp dẫn hơn. Người phụ nữ này còn rất trẻ, da ngăm đen, với đôi mắt đen và đôi môi đầy đặn, không biết xấu hổ và xấc xược, lộ ra hàm răng trắng như tuyết và mỉm cười như muốn nói: "Hãy nhìn cho kỹ, tôi đẹp làm sao." Chiếc áo đầm quấn trên người cô ta đã rơi thành những nếp gấp đáng yêu từ vai nàng, vẻ đẹp của nàng sẽ không ẩn mình dưới lớp áo, mà háo hức tung mình qua những nếp gấp, như đám cỏ non xuyên qua mặt đất vào mùa xuân. Người phụ nữ không biết xấu hổ đã uống rượu, hát những bài hát và để mặc cho bất cứ ai muốn cô ấy.
Sau khi mô tả tất cả sức hấp dẫn của ma quỷ, vẻ đẹp của cái ác, và sự quyến rũ hấp dẫn của hình dạng phụ nữ đáng sợ, vị Sư già nguyền rủa ma quỷ, rồi quay lại am thất và nhốt mình trong đó. . . .
Khi vị Sư già ra khỏi am thất của mình vào sáng hôm sau, không có một tu sĩ nào còn lại trong chùa; tất cả các tu sĩ đã chạy trốn đến thị trấn. Ngoại trừ trong Chánh Điện, trên bục cao tôn tượng Đức Phật đôi mắt Ngài toả ra sự từ bi như thương xót vị Sư già đang gục mặt nơi chánh điện./.