Monday, November 21, 2022

Câu chuyện về Vô Thường, Khổ Đau và Vô Ngã

 Câu chuyện về Vô Thường, Khổ Đau và Vô Ngã

Minh Hạnh

Buổi tối sau khi uống trà, bà Hai đến sofa ngồi đọc sách. Trong phòng đứa cháu nội, Ashley vừa được 4 tuổi đang ngồi chơi con búp bê của nó dưới sàn nhà. Em trai nó, bé  Aiden vừa được 2 tháng tuổi nằm trên tấm chăn mỏng gần đó. 

Ashley chợt thấy con nhện con đang bò gần tấm chăn em trai đang nằm, nó  gọi mẹ.

- Mama, con thấy có một con baby nhện  đang bò gần em Aiden, nó đang đi kiếm mẹ nó.

Người con dâu đang đứng kế bếp, vội chạy lại:

- Đâu, con nhện đâu?

Ashley chỉ con nhện và nói:

- Nó là baby, nó đi kiếm mẹ nhện của nó, Mama đừng giết nó, để nó đi kiếm mẹ nó. Hôm qua mama đã giết mẹ nhện của nó rồi, hôm nay đừng giết nó.

Nhưng người con dâu đã nhanh tay cầm chiếc dép đập  xuống sàn nhà nơi có con nhện con đang bò.

Đứa bé khóc oà lên:

- Tại sao mama lại giết con baby nhện, nó đang đi kiếm mẹ nhện của nó mà? Hôm qua Mama đã giết nhện mẹ rồi, sao hôm nay lại giết con baby nhện ???

Người con dâu lúng túng không biết làm sao để giải thích, đành ôm đứa con nhỏ dỗ dành.

- Mama xin lỗi, mama xin lỗi, mama sẽ không  giết nhện nữa.

Ashley nín khóc nhưng đôi mắt còn ngập đầy nước mắt.

Bà Hai đưa mắt nhìn đứa cháu nội, lòng xúc động vì lời nói của đứa cháu 4 tuổi, dù nhỏ nhưng đã có sự suy nghĩ và tánh bản thiện vốn có tự nhiên của một đứa trẻ. 

Bà  nghĩ: "Nhân chi sơ tánh bản thiện" là đây.

Đặt cuốn sách xuống, bà đi ra ngoài vườn. Trời chớm vào xuân vẫn còn se lạnh,  tiếng côn trùng rền rã như đang tấu lên một  bản hòa âm của tạo hóa,  bà nhận ra sự hòa hợp và thánh thiện của chúng, điều mà người bình thường không thể hiểu được, nhưng tâm bà có một cảm giác an lạc tuyệt vời. Khu vườn trồng  nhiều cây ăn trái , cùng với những cây hoa hồng, xen kẽ hoa hải đường, hoa lạc đà, hoa đỗ quyên, một loạt các loài hoa đủ mọi sắc màu.  Mùa xuân chỉ mới bắt đầu nhưng những bông hoa  đã đủ nở rộ trong buổi hoàng hôn, nhất là sau cơn mưa khi những giọt nước mưa còn sót lại lấp lánh trên những bông hoa, thật là quyến rủ.

Chợt một ý tưởng khởi lên trong tâm bà, nếu mai này bà chết,  điều gì sẽ xảy ra với trang web  "Vườn Hoa Phật Pháp" của bà? Với những bài bà viết, những bài dịch, những câu chuyện tâm linh này sẽ như thế nào. Bà yêu trang web hơn cả yêu bản thân bà. Bà làm việc từ sáng đến tối,  làm tất cả mọi việc với tâm trí và đôi tay của  mình  trên bàn phím máy vi tính. 

 Bà luôn luôn lo lắng rằng điều gì đó sẽ xảy ra với trang web của mình. Bây giờ giả sử bà chết vào ngày mai, ai sẽ thay thế bà làm tất cả những điều này? Ai sẽ làm công việc này? Hay là nó sẽ đi vào hư vô vì định luật của tam tướng cuộc đời là: Vô Thường, bất toại nguyện và Vô Ngã !!!

Vợ chồng bà bồng bế hai con nhỏ chạy trốn khỏi cuộc tấn công tàn khốc của cộng sản vào Sàigòn, định cư tại nơi đất khách quê người, với những khó khăn vì khác biệt ngôn ngữ, tập quán, cha mẹ, anh chị em phân tán, ra đi bỏ lại nhà cửa, tiền bạc. Vợ chồng bà cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường, bắt đầu lại từ đầu với bao sự thiếu thốn, cơm nước gạo tiền.

 Giữa lúc đang cố gắng trong sự hi vọng nhỏ bé. Có lẽ là do Chư Thiên dẫn dắt mà  vợ chồng bà gặp được vợ chồng giáo sư người Cuba, cả hai là giáo sư giảng dậy tại viện đại học, họ cũng đã từng là người di tản ra khỏi đất nước xứ sở của họ để lánh nạn cộng sản. Nên họ có sự thông cảm với hoàn cảnh gia đình bà, và họ đã tận tình giúp đỡ hai vợ chồng bà.  Nhờ vào sự giúp đỡ của vợ chồng người Cuba hướng dẫn cách thi vào đại học và còn tài trợ tiền học phí cho hai ông bà. Ông bà đã học được những đức tính cao qúi của vợ chồng người giáo sư này là sự từ bi và lòng quảng đại, và sự xả thí.  Nhìn vào tấm gương đó bà đã nguyện với lòng mình là phải trả ơn cho sự giúp đỡ của họ bằng cách giúp đỡ lại những người khốn khó khác mà bà gặp trên con đường đời bà đi qua. Đức Phật đã dạy rằng ở trên đời có hai hạng người khó tìm đó là: Người thi ân, và người tri ân đáp ân.

 Rồi thời gian trôi qua, hai vợ chồng bà kiếm được việc làm tốt sau khi tốt nghiệp đại học. Các con thì khôn lớn, dựng vợ gả chồng cho chúng xong. Giờ đây đã trên 47 năm sống trên đất khách quê người, ông bà đã nhận nơi đây là quê hương mình. 

Cuộc sống ông bà giờ đã ổn định, không còn phải lo toan tiền bạc con cái nữa, vì những đứa con đều đã lập gia đình và có công việc làm ăn khá giả. Bà tìm vui trong kinh sách, ông thì chăm lo vườn tượt. 

Từ rất lâu bà ôm ấp ước mơ viết lách những gì suy nghĩ, những gì học được từ chung quanh. Ngay cả khi bà mới được 4 hay 5 tuổi, thuở chưa biết đọc, chưa biết viết, bà thường hay ngồi nơi bàn học của anh mình, với một tờ giấy học trò và cây viết chì, bà viết  nguệch ngoạc, ai hỏi bà đang làm gì, thì bà trả lời là đang viết truyện, mặc dù chưa biết đọc chữ cũng như viết chữ. Có lẽ đó là nghiệp dư mà bà đã mang theo từ kiếp trước sang kiếp này. Vào năm học tiểu học bà đã bắt đầu viết những câu chuyện ngô nghê về những đứa bạn học, viết xong một bài, bà vò tờ giấy bỏ vào thùng rác chứ không đưa ai đọc vì biết là câu chuyện mình viết rất ngô nghê. Khi lên trung học vì bận rộn bài vở trong lớp nên thỉnh thoảng  bà mới viết.

Và giờ đây, cuộc sống đã ổn định, bà đã bắt tay vào việc tạo nên một trang web "Vườn hoa Phật Giáo". Bà bắt đầu tìm hiểu về Phật Pháp và tạo nên một trang web với những bài viết, bài dịch thuật về Phật Pháp với tất cả tấm lòng biết ơn về sự giúp đỡ của Chư Thiên đã dẫn dắt đưa bà đến con đường tìm hiểu Phật Pháp.

Ðể tránh sự phiền não từ của cuộc sống bên ngoài xã hộ, bà không giao tiếp với bất cứ ai, ngày ngày bà làm việc miệt mài viết lách và nghiên cứu Phật  Pháp suốt 20 năm trời, bỏ hết những tuế toái phiền lụy của thế gian. Giờ đây bà cảm thấy mãn nguyện vì đã có thành tích đáng kể khi nhìn vào trang web mình đã làm.  

 Đây là cách bà biểu lộ niềm tin vào Phật Pháp. Niềm tin chánh pháp là đức tính tốt của tâm hồn. Nó là đức tính bẩm sinh, mà bà có thể đánh giá từ trường hợp của chính mình, từ những người bà đã gặp trong đời, từ tất cả những gì bà thấy xung quanh mình, đức tin bẩm sinh này vốn có ở tất cả người Phật tử Việt Nam ở một mức độ đáng tán thán.

 Cuộc sống của người Phật tử Việt Nam thể hiện như một chuỗi liên tục của niềm tin. Việc một người Việt Nam mà không tin vào Đức Phật đó chỉ là một cách nói rằng người đó tin vào một điều gì đó khác, cho những ai không tin hoặc phủ nhận niềm tin vào Phật Pháp.

Ở tuổi già, hầu như ai cũng thường nhớ tới thời tuổi thanh xuân của mình với bao ước muốn giá mình được sống lại thời thơ ấu đó. Bà Hai cũng có sự hoài niệm về thời quá khứ của mình. Điều mà bà mong muốn sao cho cuộc sống trong đời này được an nhiên tự tại, luôn được thanh thản trước mọi sự vô thường thay đổi  của cuộc đời, nội tâm được an trú trong những việc thiện để làm tư lương cho cuộc sống kiếp sau.

Thời gian vô thường, cuộc sống bận rộn với những công việc tất bật hàng ngày, công ăn việc làm, những  trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, khi nhìn  lại mình thì thấy mình đã già, thời gian như tên bay, mới thấy đời người thật ngắn ngủi để rồi thảng thốt khi  bà thấy được sự vô thường ở ngay thân bà. Và bà hiểu ra một điều, được sống thanh thản hưởng chọn niềm yêu thương là điều vô cùng quý giá. 

Bà nhớ câu chuyện đã xảy ra cách đây 50 năm, nhà bà là đại lý bán gạo, cửa hàng nằm ngay đầu ngõ nên buôn bán người ra vào tấp nập. 

Một hôm khi mở cửa hàng, bên hàng cây cổ thụ đối diện với cửa nhà bà một cái chòi vừa được dựng lên ngay dưới gốc cây. Nói là cái chòi, chứ thực ra là một cái mền nhà binh cũ được buộc vào thân cây và một người đàn ông khoảng độ 60 tuổi, ăn mặc rách rưới nằm ngủ ngay đó. Nghe tiếng cửa mở ông ta ngồi dậy gật đầu chào, bà gật đầu chào lại, và thắc mắc ông ta là ai lại dựng lều đối diện cửa nhà mình, nhưng rồi bà đi vào nhà để tiếp tục dọn hàng  bán và  không để ý gì đến người ăn xin đó nữa.

Khoảng giờ ăn trưa, con trai lớn của bà Hai lúc đó vừa tròn 4 tuổi  nó nói với bà:

- "Mẹ, con muốn cơm."

 Bà nghĩ tới giờ cơm rồi con đói bụng nên xuống bếp múc một tô cơm, chan nước thịt kho trộn đều vào tô cơm  rồi gắp 2 miếng thịt kho lớn và nửa quả trứng vịt kho để vào trong tô cơm, rồi  để trên bàn cho con ngồi đó ăn để bà ra bán hàng vì lúc đó có một người vào mua gạo.

Bà Hai loay hoay với khách mua gạo không để ý đến đứa con đang ngồi ăn cơm, đến khi cửa hàng vắng khách bà quay lại bàn ăn thì không thấy thằng bé đâu, bà gọi tên nó nhưng không nghe tiếng trả lời, bà vội chạy ra cửa thì thằng bé đang đứng nhìn người ăn xin, trong khi người ăn xin cầm tô cơm của nó ăn một cách ngon lành. Bà đứng lặng nhìn cảnh tượng mà trong lòng xúc động. Thì ra,  con xin cơm cho người ăn xin. Hèn chi nó nói mà thiếu chữ "ăn".

- "Mẹ, con muốn cơm",  chứ nó không nói là: "Mẹ, con muốn ăn cơm."

 Từ đó, mỗi ngày bà đều cho ông ta một tô cơm vào buổi ăn trưa và buổi ăn chiều. Người ăn xin ở đó luôn tưởng chừng như là nhà ông ta, không biết gia đình ông ở xứ nào mà lưu lạc đến trước cửa nhà bà Hai, tứ cố vô thân. Mỗi khi trời đêm mưa gió, ông nằm co ro trong lều, bà Hai lại loay hoay đi kiếm mền cũ đem ra cho ông.

Người ăn xin đó có cặp mắt u buồn,  có điều  gì đó u uần đau khổ  tỏa ra từ cặp mắt ông.  Đôi mắt ông như muốn nói lên một điều gì đó rất là đau buồn đã xảy ra trong đời của ông. Ngày qua ngày, rồi một năm sau đó, một buổi sáng  bà Hai mở cửa, người ăn xin vẫn nằm đó, không ngồi dậy chào bà như mọi khi, nhưng bà không để ý mà đi vào bên trong để chuẩn bị bán hàng. Một lúc sau bà đi ra cửa vẫn thấy người ăn xin nằm trong lều, bà đến gần lều và gọi, ông ta không trả lời, bà cúi xuống lay ông ta thì người ông đã cứng đờ. Bà hoảng hốt kêu ông Hai báo với cảnh sát là có người chết. Sau đó cảnh sát đến và mang ông lão ăn xin đi,. Một cuốn sách rớt lại nơi ông ta nằm.

Bà Hai mang vào nhà, đó là cuốn sách học trò đã cũ và nhầu nát, một cuốn nhật ký của ông đã viết rất nhiều về những gì xảy ra trong cuộc đời của ông . Bà mở ra đọc, thì biết được câu chuyện đau thương đã xảy ra với người ăn xin này. 

Quê ông ở một làng gần Trảng Bàng,  ông là ông giáo làng dạy học những đứa trẻ trong làng, Vợ ông cũng là cô giáo trong làng, hai người quen nhau vì cùng dạy  tại ngôi trường trong làng và rồi nên duyên vợ chồng, hai vợ chồng ông có một đứa con đi lính Cộng Hòa. Rồi một hôm đứa con trai về thăm nhà thì đêm đó cộng sản pháo kích vào làng trúng nơi giường  con ông. Vợ ông nằm ngủ ở cái giường gần đó cũng bị sức èp của trái pháo bị thương nặng sau đó cũng qua đời, ông thoát nạn là vì lúc đó ông đã thức dậy đi ra sau vườn vệ sinh nên ông không bị gì . Sau khi an táng vợ con xong, không còn bà con thân thích gì ở làng quê đó, ông lên Sàigòn và gốc cây trước cửa nhà bà Hai là nơi đầu tiên ông tá túc.

Đó là câu chuyện về sự Vô Thường, sự Đau Khổ và sự Vô Ngã của một đời người ngắn ngủi, bà đã mang nó theo trong tâm trong suốt bao năm tháng. Nó là bài học cho bà và nó cũng là tấm gương cho bà soi để làm hành trình trong cuộc sống của bà./.


Saturday, November 5, 2022

Niềm Tin !!!

                                                                            Niềm Tin !!!

Tác giả xin viết câu chuyện hư cấu "Niềm Tin" dựa theo câu chuyện của một tác giả người Tây Tạng và, cũng có thể nói một số người Việt Nam rằng: Niềm Tin mà không hiểu Phật Pháp, không có vị minh sư hướng dẫn Chánh Pháp thì dễ đi vào con đường hiểu sai lạc.

Minh Hạnh


Quần thể tu viện vài năm trước chỉ là một dãy nhà cũ nát lộn xộn, sau đó mọi thứ bắt đầu được sửa chữa tu bổ lại. Bây giờ tu viện tự hào là một ngôi đền rực rỡ, có một hội trường để Phật tử sinh hoạt, và một chánh điện chính nằm giữ ngôi chùa cao vút. 

Dường như các nhà sư của tu viện đang cạnh tranh để xem ai có thể dựng lên tòa nhà lớn nhất. Quả thực, đạo sư Bon, ông tự nhận mình là vị Lama tái sinh, mọi người ở đây gọi ông là Lama Bon, ông sống trong một tòa nhà lớn và cao hơn tất cả những tòa nhà khác. Ở tuổi năm mươi, người dân địa phương nhận xét rằng đôi tai to và dày của ông cho thấy ông là một chú gấu trúc, và tin rằng hóa thân trước đây của ông là một ẩn sĩ nổi tiếng, người đã hiển thị sức mạnh siêu nhiên, tuyệt vời.

Hầu hết người dân địa phương đều chân thành tin tưởng vào Lama Bon, ông thường nói:

"Cuộc sống trên đời này không bao giờ là bình yên." 

Điều này có vẻ đúng, bởi vì ông đã nghe nói rằng có một nhà sư ở tu viện khác đã tuyên bố chính ông ta mới là hiện thân của hóa thân trước đó của  Lama Bon. 

Lama Bon đã lo lắng về điều này cho đến khi "kẻ mạo danh" mình chết, từ đó Lama Bon mới có một cuộc sống ít căng thẳng hơn.

Một bộ lạc lớn gồm những Phật tử hết sức tận tụy sống gần tu viện cả mùa xuân nếu có đủ cỏ cho gia súc của họ. Các thành viên bộ lạc này bao gồm bà  ske và con gái của bà là cô Klu, người thường xuyên mang sữa chua và cơm đến cúng dường cho Lama Bon với hy vọng do phước báu cúng dường này mà họ có cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn.

Trên dòng sông với nhiều mỏm đá nhấp nhô chảy gần tu viện vào mùa xuân,  dòng nước và băng đá nhấp nhô này giống như một con rắn khi nhìn từ trên đỉnh núi. Mỗi buổi sáng, khi những con chim cúc cu nhảy từ cành cây này sang đến cành cây kia như chào đón mùa xuân đến. 

Cô bé Klu đứng dậy và nói, "Mẹ ơi, con bị bệnh đau răng."

Mẹ cô trả lời, "Chà, không thể để nó trở nên nặng hơn. Con đã không phàn nàn về nó với mẹ ngày hôm qua. Con hãy đi gặp cô shis người hàng xóm của chúng ta, và bán len mà cha con đã thu thập ngày hôm qua từ bầy cừu của mình cho cô Shis. "

"Vâng, thưa mẹ," Klu trả lời, và ra ngoài đợi.

Khoảng một giờ sau, người hàng xóm đến, cô bé Klu nhìn chằm chằm vào chiếc áo len của người hàng xóm đang mặc và nói trong sự thán phục. 

"Chị ơi, áo len của chị đẹp làm sao! Nó được làm bằng vật liệu gì? "

Người phụ nữ hãnh diện, giơ tay lên, chỉ vào len chất đống như một ngọn đồi trên một chiếc xe tải phía sau cô ấy, và nói, "Ở đằng kia. Nó được làm bằng len đó. "

Klu nhìn chiếc áo len sạch sẽ, đầy màu sắc và hấp dẫn rồi cô nhìn lại đống len của cô bán bị trộn với bụi. Nhìn vào một lần nữa, cô ấy nói một cách nghi ngờ, "Uh ... Chị nói nói đùa sao. "

 Người phụ nữ đã đưa cho cô 200 ngàn để mua len của Klu. Sau đó trên đường Klu về nhà để gặp mẹ, cô nghĩ mẹ cô sau khi đếm tiền "Mẹ sẽ đưa một trăm ngàn để cúng dường cho chùa , đó là sự đóng góp cúng dường cho Lama Bon tái sinh của chúng ta, người đã đến thăm từng gia đình trong tháng này. Nhưng tôi chắc rằng mẹ sẽ vẫn mượn một trăm ngàn để dâng cúng đến Lama Bon. "

Khi cô ấy đang đi bộ về nhà, hình ảnh của chiếc len xinh đẹp đó hiện lên liên tục trong tâm trí cô.

Khi đến nơi, mẹ cô đã lấy 200 ngàn mà không hỏi gì về việc bán len, bà chỉ hỏi, "Răng của con thế nào?"

“Nó vẫn còn đau mẹ ơi,” Klu nói.

Mẹ cô ấy lấy ra một bức ảnh của Lama Bon, để nghiêng tấm ảnh dựa vào  một hòn đá nhỏ và nói: 

"Con sẽ khỏi bệnh đau răng sau khi lễ lạy bức ảnh này một trăm lần. Sau khi hoàn thành 100 lạy, con đem sữa chua và cơm đến cúng dường cho Lama và hỏi Ngài về cơn đau răng của con. Sau đó mẹ và cha sẽ mời một số nhà sư đến nhà tụng kinh cầu nguyện cho con."

Cô Klu mệt mỏi sau khi vội vàng hoàn thành 100 cái lễ lạy của mình,

Klu nghỉ ngơi một lúc, cởi bỏ chiếc áo choàng cũ bằng da cừu, và khoát lên người một chiếc áo choàng mỏng màu nâu, và bắt đầu đi theo con đường ngoằn ngoèo dẫn đến Tu viện. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống những ngọn núi dưới một bầu trời trong xanh không một gợn mây. Cô cảm thấy khỏe hơn.

Lama Bon vừa bước xuống từ giường khi Klu bước vào buồng của mình. Sau khi lễ lạy ba lần, cô đã nói với ông tất cả chi tiết về cơn đau răng của cô. Cô Klu mười bảy tuổi và không đẹp lắm. Tuy nhiên, bộ ngực đẫy đà, đôi mắt to và đôi môi mịn màng đã khiến cô hấp dẫn. Lama Bon nhìn chằm chằm vào bộ ngực của cô và nghĩ, "Nó đã quá hấp dẫn, ta phải  tham gia vào bí hiểm này, "và sau đó ra lệnh cho Klu tiếp cận ông. Khi chuẩn bị khám đau răng của cô ấy, ông đã áp mặt vào má cô và nói: "Mở miệng ra."

Klu há miệng và nhắm mắt ...

***

Sau một bát cereal và một lát bánh mì nướng cho bữa sáng, Lama Bon vẫn cảm thấy hơi đói và bắt đầu ăn sữa chua Klu đã mang lại. Trong khi ăn, ông cầm một tờ báo và đọc.

Nắng buổi sáng tươi mát hắt qua cửa sổ chiếu lên bàn ăn trong phòng nơi Lama đang ngồi trên ghế. Tiếng gõ lớn đột ngột ở cửa ông nhìn lên thì thấy hai nhà sư bước vào, họ nhìn nhau giận dữ với khuôn mặt đỏ sẫm, và đồng thời nói: 

"Đại sư! Xử giùm tôi vụ này..."

Lama Bon lên tiếng: "Chờ đã! Chờ đã! Tôi không biết ai đúng nếu cả hai cùng nói một lúc."

Ông chỉ vào nhà sư bên phải và nói:,

"Sư nói trước đi."

Nhà sư chỉnh lại chiếc áo cà-sa trên vai và nói: 

"Thưa Ngài, tối qua sư Tshul đến nhà tôi. Tôi đã cho anh ấy bơ trà trong chén trà bằng bạc của tôi. Anh ấy nói, 'Nó đẹp quá,' và ngắm nghía nó mãi. Trên thực tế, tôi không muốn bán nó với giá thậm chí dù có người muốn 2.000 đồng. Chúng tôi đã nói chuyện rất lâu. Một lúc sau đó, tôi phải đi ngoài và đi tiểu. Khi tôi trở lại thì sư Tshul đã đi mất. Và tôi phát hiện ra rằng cốc trà của tôi đã biến mất, khi tôi thức dậy sáng nay và muốn uống một bát trà. Tôi đã tìm kiếm nó khắp nơi trong nhà tôi, nhưng tôi không tìm thấy nó. Bạn biết đấy, một tu sĩ như tôi, tôi nên tìm nó trong phòng của tôi, nhưng tôi đã tìm không thấy. Chỉ có Tshul đã đến phòng của tôi ngày hôm qua. Khi tôi lịch sự hỏi anh ấy về việc chén trà bằng bạc bị mất. Thật bất công. Ngài nên xử giùm tôi, thưa Ngài! Chỉ nghĩ rằng! Làm sao tôi, một nhà sư mặc áo cà sa lại có thể nói dối được? "

Lama nhìn vị sư kia, ra hiệu rằng đã đến lượt ông ta nói.

Nhà sư kia phát ra một tiếng ho ngắn và bắt đầu:  "Tôi đã đến phòng của Bkra uống trà và khen ngợi chén trà của anh ấy. Tất cả đều đúng. Nhưng mà, Không đúng là tôi đã lấy chén trà của anh ấy khi tôi rời đi. Làm thế nào tôi có thể làm một cái gì đó như một nhà sư mặc áo cà sa? như thể anh ta nghĩ rằng tôi lấy trộm chén trà của anh ấy. Đây là lý do tại sao chúng tôi đang ở đây. Xin vui lòng xử cho đúng!"

Lama Bon đứng và nói, “Chuyện này đã xảy ra giữa hai người. Đối với tôi điều đó thật dễ dàng! "

Hai nhà sư ngạc nhiên nhìn vào mặt Lama Bon khi ông nói: "Trong thực tế, đây là một câu hỏi rất dễ, nhưng chúng ta không biết phải đưa ra hình phạt nào cho tên trộm. Tôi có cách làm cho hai bạn một cách tốt để xác định kẻ trộm. " 

Một vị sư nói:  "Tshul đã đánh cắp chén trà của tôi."

Tshul đáp lại, "Tôi nguyện trước Tam Bảo rằng tôi đã không ăn cắp nó."

Bây giờ buộc phải chứng minh khả năng pháp thuật của mình, Lama Bon đứng dậy, đóng cửa, kéo rèm cửa sổ lại, và lấy một vật thể được bọc trong vải màu vàng từ bàn làm việc của mình. Đó là một tôn tượng điêu khắc kích thước chừng ba mươi lăm milimét.

Quên đi hiềm khích, hai nhà sư nhìn nhau trong sự nghi ngờ.

Lama Bon nói, "Đây là một vị Phật có thật. Hai người phải làm một tuyên thệ và để tôn tượng này lên đỉnh đầu của mình. Kẻ nào nói dối sẽ rời khỏi thế giới này trong ba ngày. Hãy hiểu điều này nếu bạn vẫn muốn sống."

Ông đã giải quyết nhiều vấn đề khác nhau bằng cách sử dụng thủ tục này. Lama chắc chắn tin tưởng vào tượng Phật này và tin chắc rằng mình có thể nhanh chóng giải quyết vụ này.

Sư Bkra  đặt tượng Phật trên đỉnh đầu mà không do dự và thề, "Tôi chắc chắn sẽ chết trong ba ngày và sau đó được tái sinh ở Địa ngục nếu tôi thực sự lấy trộm chén trà của Tshul. "

Tshul thề, "Tôi phải xuống Địa ngục trong ba ngày nếu Bkra không ăn cắp chén trà của tôi. "

Lama Bon nói, "Sau ba ngày, người vô tội sẽ vẫn sống trên thế giới này và tội nhân sẽ ở Địa ngục. "

Sau đó, cả hai rời đi, nghi ngờ rằng có chăng những phương pháp như vậy đã được sử dụng để xác định bên có tội?.

Ba ngày trôi qua và hai nhà sư trở lại gặp Lama Bon, ông đã rất ngạc nhiên. Ông nghĩ ngợi lung tung. Khả năng phù phép của ông đã chứng tỏ đã bốc hơi rồi. Ông nói trong vô vọng,:

 "Một cái chén trà không có giá trị gì cả. Về nhà đi."

"Hừ!" Hai nhà sư thốt lên thất vọng và ra về.

Đột nhiên Lama Bon nhớ rằng Stobs đã mời ông đến tụng kinh cho đám tang của cha của Stobs. Ông đặt bát sữa chua xuống và nhanh chóng đi ra ngoài để đến nhà của Stobs, ông mang theo chuông mõ.

Stobs là con người trung thực và gia đình anh ta là người giàu nhất trong làng quê. Stobs thường bị cha nói "Con không trung thực, con là một kẻ ngốc bị người ta lợi dụng," cha ông ta thường nói: 

"Giúp đỡ người khác rất tốn kém! Đừng lãng phí tiền bạc!"

Tuy nhiên, Stobs đã giúp đỡ người khác nếu anh ta có thể, và đã bỏ qua lệnh của cha mình.

Khi Lama Bon đến nơi, Stobs nói:

"Thưa đại sư, con rất tiếc vì con là một đứa con bất hiếu và không thể phụng sự cha mình. Hôm nay con đã vững tâm vì có Ngài đến để tụng kinh cho Cha. Xin hãy phù hộ cho linh hồn của Cha để được tái sinh trong thế giới này hoặc ở Tây Phương Cực Lạc. "

"Đừng lo lắng. Ta có một cách để đảm bảo rằng cha của con sẽ được tái sinh trong thế giới này. Con sẽ gặp lại ông ấy, "Lama 'Bon quả quyết và bắt đầu tụng, nhưng không ai nghe được ông tụng kinh gì, chỉ thấy Lama Bon thì thào rất nhỏ trong miệng. Dường như ông sợ người ta biết ông không hề biết kinh kệ là gì.

 ****

Trên đường trở về nhà, Klu nhận ra điều gì đó đã xảy ra khi cô nhìn thấy nhiều người tụ tập tại nhà của Stobs. Cô sớm nhận ra rằng đó là một đám tang. Một lúc sau, má cô đỏ như táo khi cô bắt gặp ánh mắt của Lama Bon. Cô  vội vàng  bỏ về nhà trong sự bối rối. Người dân địa phương bận tâm đến đám tang và phớt lờ cô. Về đến nhà, mẹ cô đã chuẩn bị bữa tối. Bà skyid nói:

 "Con gái, răng của con có ổn không? Ân nhân của chúng ta, Lama Bon, nói gì? "

"Ồ! Răng của con không còn đau nữa," cô ấy trả lời.

"Ông ấy đã nói gì về nó?" Bà skyid nhấn mạnh.

"Ồ ... ông ấy không nói gì cả. Ông ấy chỉ ngó vào miệng con,"

Klu thì thầm, sợ tiết lộ những gì đã thực sự xảy ra. Sau đó, cô không muốn mang sữa chua và cơm cho Lama Bon nữa, nhưng mẹ cô tức giận nhấn mạnh: 

"Con gái, đây là vinh dự của chúng ta. Nếu chúng ta làm điều này cho một Lama trong cuộc sống này, chúng ta nên vui mừng. Chúng ta sẽ bị trừng phạt bởi các vị thần nếu con tiếp tục có thái độ sai trái, ngu ngốc như vậy."

****

Thời gian trôi qua nhanh, một mùa thu đã tới. Các đỉnh núi màu xanh như thảm cỏ trải dài từ trên chảy xuống thung lũng. Cỏ và lá vàng bay vu vơ trong gió khi những người chăn gia súc địa phương lái xe gia súc của họ về trại.

"Thịt cừu dành cho các nhà sư vào mùa thu, sữa chua dành cho các cô dâu ở mùa thu ", một câu nói địa phương. Thật vậy, các nhà sư đã đợi thịt cừu và sữa. 

Một số nhà sư nở một nụ cười thật tươi và chào đón những người họ nhìn thấy đến với một túi nặng dọc theo con đường đến tu viện. Hầu hết du khách đều hỏi: 

"La ma Bon có sống ở đây không?" 

Khi câu trả lời là không, họ tiếp tục bước đi.

Đạo sư Bon rất thích những món quà được cúng dường từ những người Phật tử của mình. 

Nhưng đôi khi không phải ông đều hài lòng với mọi việc xảy ra. Đó là vào một buổi sáng đẹp trời, Lama nhận thấy Klu đã mang thai. Khó có thể tin vào mắt mình, ông hỏi:

- "Có phải cô có thai không?"

Klu cúi đầu, khuôn mặt của cô dường như được chiếu sáng bởi những cục than sáng rực từ đống lửa.

- "Ai là cha của con cô?" Đạo sư Bon hỏi tiếp.

Đôi mắt sáng của cô nhìn ông một cách ai oán. Cô giữ im lặng.

- "Cô có nói với ai  khác về điều này không?" Lama Bon hỏi tiếp.

- “Không ai cả,” Klu  khẽ thốt lên.

- "Tốt. Hãy giữ bí mật của chúng ta trong trái tim con mãi mãi. Ta sẽ tạo ra một số phận tốt đẹp cho đứa bé." Lama Bon hứa.

- "Chính phủ nghiêm ngặt về giới hạn sinh đẻ và gia đình tôi nghèo. Mẹ thường hỏi tôi về bố của đứa bé. Mẹ tôi muốn cha đứa bé sống trong nhà của chúng tôi. Nếu ông từ chối, chúng tôi sẽ giao đứa bé cho ông sau khi nó được sinh ra, ” Klu nói, nước mắt chảy dài trên má.

Lama Bon, bàn tay trái nhẹ nhàng lần chuỗi hạt, và nói:

- "Về nhà. Nói mẹ của con đến gặp ta."

Khuôn mặt Lama Bon cau có. Những nếp nhăn trên trán hằn lên, nhưng một lúc sau một ý tưởng nảy ra với ông và đôi mắt của ông sáng lên vẻ mãn nguyện. Ông lẩm bẩm: 

- "Đúng vậy." Ông đã nhớ lại rằng Stobs đã nhờ ông xác định danh tính của cha mình tái sinh sau khi chết.

****

- "Con không cần phải lạy. Đừng làm vậy," Lama Bon nói với bà Skyid, mẹ của Klu, khi bà đang chuẩn bị qùy xuống lễ lạy ông.

-  "Con tính làm gì với con gái của con?" Ông hỏi.

- "Thưa đại sư, con hy vọng nhận được sự hướng dẫn từ ngài, Lord lama," bà Skyid khẩn nài.

Lama Bon trả lời :

- "Thật là may mắn khi đứa bé là hóa thân của một người giàu có. Gia đình sẽ xác định vị trí và xác định đứa trẻ, người sẽ giúp gia đình con nuôi đứa bé trưởng thành. Đừng hỏi con của con về cha của đứa bé là ai. Cô ấy có thể tự tử hoặc làm điều gì đó hấp tấp nếu con gây áp lực cho cô ấy. Cô ấy còn trẻ và rất rụt rè. Con sẽ làm gì nếu cô ấy thực sự tự tử? Sau đó, có vẻ như con đã lấy hai mạng sống - cô gái và đứa trẻ chưa chào đời của cô ấy. "

- "Thưa  đại sư, thật đúng là như vậy. Con sẽ làm gì nếu con mất con gái này? " bà Skyid thở dài, và nhanh chóng qùy xuống lễ ba lạy đến Lama Bon.

Lama gợi ý, "Chuyện này sẽ tốt hơn nếu con đừng nói với người khác. "

••• 

Mùa xuân đến như mọi khi và đó là ngày giỗ Cha của Stobs. Stobs đến thăm tu viện và tặng một 100 cho mỗi nhà sư và đóng góp 1.000 cho Lama Bon.

Trong khi lễ lạy Lama Bon, Stobs  nói: "Người Cha thân yêu của con đã đi đến một thế giới khác. Đã một năm trôi qua. Cha thường xuất hiện trong giấc mơ của con. Linh hồn của cha con đã được tái sinh ở đâu? "

Lama Bon nhắm mắt và im lặng như ông đang ở trong trạng thái nhập định, tay thì nhẹ nhàng lần chuỗi hạt, và một lúc sau ông mở mắt ra và phán rằng:

- "Thật vậy! Ta đã hứa với con rằng cha của con sẽ tái sinh trong làng của chúng ta khi còn là một cậu bé. "

Phản ứng duy nhất của Stobs là há to miệng để tỏ vẻ mừng rỡ. Lần thứ  hai Stobs chắp tay lên ngực của mình như một dấu hiệu của sự lòng sùng kính Lama Bon người đang lần chuỗi hạt.

 Lama Bon nói, "Cha của con được tái sinh ở Mkon gia đình của Skyid. Tên của đứa trẻ là Chos. "

Hai năm sau, Stobs đưa gia đình của bà Skyid đến tu viện để đi nhiễu quanh nơi thờ phượng. Khi Lama Bon thấy đứa bé giờ đã hai tuổi, Chos đang nhìn vào một bức tranh trên tường của phòng họp, ông đến gần và nói một cách niềm nở,:

-  "Cậu bé ngoan, ta sẽ cho cậu nhiều kẹo nếu con  nói với chú Stobs  rằng chuỗi hạt quanh cổ anh ấy là của con. Nếu con không làm điều này, con là một cậu bé hư và ta sẽ không cho con gì cả. "

Háo hức muốn lấy kẹo, đứa trẻ Chos đến gần chú Stobs và nói:

- , "Bạn đang đeo chuỗi hạt cầu nguyện của ta!"

Stobs thốt lên:

-  "Ôi Tam Bảo! Chos  là linh hồn của cha tôi, phải không? Anh ta chắc chắn nhận ra chuỗi hạt của mình ". 

Stobs lấy chuỗi hạt vòng quanh cổ mình và trao cho chú bé Chos, rồi ôm lấy cậu bé một cách nồng nhiệt.

Bà Skyid, mẹ của cô Klu, miệng há hốc, đôi mắt tròn xoe, bà qùi xuống lạy ba lạy Lama Bon, và nói:

-  "Đại sư đã tuyệt vời, Ngài đã thấy và biết được tất cả, con đội ơn Ngài."

Không ngạc nhiên khi nhìn sự việc xảy ra, Klu tin rằng mỗi Lama đều có cách riêng của mình để cứu tội nhân ra khỏi bóng tối, nhưng những người phàm trần thường thì không thể làm được./.